Khu di tích lịch sử Lam Kinh cách thành phố Thanh Hoá 50 km về phía Tây. Nằm trên địa bàn xã Xuân Lam, Thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Lam Kinh quê hương đất tổ nhà Lê – nơi sinh ra anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy chiến công thế kỷ XV, nơi tụ họp những anh hùng hào kiệt khắp bốn phương chung sức chung lòng đứng lên đánh giặc cứu nước. Sau 10 năm (1418-1428) kháng chiến trường kỳ mới đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Thăng Long - Hà Nội lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ thịnh trị cho đất nước kéo dài gần 360 năm. Cũng như các triều đại Lý, Trần để tỏ lòng tôn kính với tổ tiên, nhà Lê cho xây dựng nhiều điện miếu, lăng tẩm có quy mô to lớn ở đất Lam Sơn. Để thờ cúng tổ tiên, nơi an nghỉ của các nhà vua, Thái hoàng, Thái hậu, nơi cử hành những nghi lễ, nơi khi vua lễ bái yết sơn lăng. Lam Sơn được coi là “kinh đô thứ hai” của nước Đại Việt sau Thăng Long Đông Đô - Hà Nội. Đây là khu di tích mang nhiều ý nghĩa giá trị văn hoá thiêng liêng không chỉ của nhân dân Thanh Hoá mà của cả dân tộc.
Trải qua thời gian lịch sử, những kiến trúc của khu di tích Lam Kinh không còn lại bao nhiêu, phần lớn đã bị huỷ hoại, nhất là sau khi triều Nguyễn chuyển một phần thờ cúng từ Lam Kinh về thái miếu Bố Vệ thành phố Thanh Hoá (1805).
Quá trình xây dựng Điện Lam Kinh được: " Đại Việt sử ký toàn thư" chép lại như sau:
- Năm 1430, sau khi lên ngôi Hoàng đế Lê Thái Tổ cho đổi vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh hay Tây Kinh để phân biệt với Đông Kinh - Hà Nội. Lam Kinh trở thành vùng đất căn bản của nước Đại Việt thời Lê.
- Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ mất được đem về an táng ở Lam Kinh các điện miếu cũng bắt đầu được xây dựng.
- Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ: Lam Kinh được xây dựng vào năm 1433, vua sai Hữu Bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu cung từ Thái mẫu, cùng năm đó điện Lam Kinh bị cháy.
- Năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho Thái uý Lê Khả và Cục bách tác làm lại điện miếu Lam Kinh. Lam Kinh được tiếp tục xay dựng chưa đầy một năm, đến tháng 2 năm 1449 công việc xây dựng hoàn thành.
- Năm 1456, trong dịp hành lễ ở Lam Kinh vua Lê Nhân Tông đã đặt tên cho 3 toà của Chính điện là Quang Đức, Sùng Hiếu, Diễn Khánh.
Quy mô công trình kiến trúc Lam Kinh được ghi trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú như sau:
"Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biết, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái Tông và các lăng của vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở giảng đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp".
Tuy nhiên, các công trình kiến trúc như xưa đến nay không còn nhiều, nhưng với ý nghĩa giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hoá, tâm linh với lòng thành kính tôn vinh các vua triều Hậu Lê đã có công lao to lớn với đất nước. Năm 1962, di tích lịch sử Lam Kinh được xếp hạng cấp quốc gia, đến 1994 được Chính phủ phê duyệt dự án trùng tu tôn tạo. Từ đó đến nay nhiều hạng mục công trình khu di tích đã được phục hồi tôn tạo, tránh được sự hoang phế, bảo vệ được nhiều di tích di vật cổ thời Lê.
* Công tác trùng tu, tôn tạo khu di tích lịch sử Lam Kinh.
Khái quát về dự án
Khu di tích lịch sử Lam Kinh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án tổng thể tại Quyết định số 609/TTg ngày 22/10/1994 và UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt Quy hoạch chi tiết tại Quyết định số 2016/QĐ-UB ngày 19/06/2002.
Tổng diện tích khu di tích là 141ha (nằm trên xã Xuân Lam,Thi trân Lam Sơn huyện Thọ Xuân và xã Kiên Thọ huyện Ngọc Lặc).
Mục tiêu của dự án là: Khôi phục, bảo tồn Khu di tích lịch sử Lam Kinh thành một quần thể di tích lịch sử, văn hoá và khu tưởng niệm gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, Nhà nước.
Cụ thể là:
+ Bảo vệ, tu bổ, phục hồi, tôn tạo các công trình kiến trúc cổ trong khu di tích.
+ Phục hồi khu rừng Lam Kinh, trồng cây tôn tạo cảnh quan khu điện, khu lăng và bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Cải tạo và xây dựng khu phục vụ quản lý và các hoạt động tưởng niệm.
+ Xem xét bảo vệ, tu bổ, phục hồi, tôn tạo các công trình kiến trúc cổ khác có liên quan đến sự nghiệp của Lê Lợi như đền Lê Lai, núi Dầu, tạo nên một quần thể di tích lịch sử hợp lí có đầy đủ ý nghĩa nhân văn và giáo dục.
Những di tích tiêu biểu hiện còn trong khu di tích Lam Kinh và đang được Nhà nước đầu tư phục hồi tôn tạo:
Tổng số gồm 50 hạng mục công trình chính.
Đến nay đã triển khai 23 hạng mục hoàn thành, 05 hạng mục đang triển khai thực hiện đầu tư và 22 hạng mục chưa có vốn để triển khai.
- Từ cổng vào khu trung tâm:
+ La Thành hay Thành Ngoại: hai bên cầu Bạch xây bằng đá cuội xếp khít mạch là thành ngoài của di tích, có tác dụng “ngưỡng’’ ngăn cách bên trong và ngoài nằm ở phía Nam.
+ Sông Ngọc, hồ Tây: Đây là hệ thuỷ của di tích Lam Kinh vừa là cảnh quan, vừa tạo phong thuỷ cho toàn bộ di tích.
+ Giếng Cổ: có từ thời tằng tổ của Lê Lợi là cụ Lê Hối khi rời làng từ Như áng xuống Lam Kinh lập ấp canh tác sản xuất. Giếng phục vụ sinh hoạt cho gia đình và gia nô trong nhà. Sau khi trở thành kinh đô thứ hai “cố hương’’, giếng vẫn sử dụng phục vụ sinh hoạt cho Lam Kinh.
+ Nghi môn, Ngọ môn (cửa phía Nam) của điện Lam Kinh nơi đón tiếp nghi thức trước khi vào điện chầu trước khi phục hồi còn toàn bộ nền móng, tảng cột cái thời Lê Trung Hưng.
+ Sân Rồng, Sân Chầu: phục vụ tế lễ các quan văn võ bái chầu khi vua thiết triều, tổ chức tế lễ.
+ Chính điện là điện chính giữa khu trung tâm lớn nhất hình chữ công (I) gồm 3 toà nhà lớn gọi là Quang Đức, Sùng Hiếu, Diên Khánh. Diện tích 1648m2 với 138 chân tảng hiện còn 124 chân tảng, nay đang tổ chức phỏng dựng trên nền cũ đến 2015 sẽ hoàn thành.
+ Chín toà Thái miếu: nằm phía sau nhà Chính điện gồm 9 toà nhà có kích thước gần vuông, diện tích các toà tương đối gần bằng nhau từ 180m2 – 220m2 xếp theo hình cánh cung ôm lấy Chính điện Lam Kinh Thái miếu là nơi thờ cúng các vua Thái hoàng, Thái hậu triều đại Hậu Lê. Từ 2005 đến nay đã phục hồi tôn tạo 5 toà, theo kiến trúc thời Lê Trung Hưng bằng gỗ lim, mái lập ngói mũi hài, nền lát gạch bát giã cổ, vách đố lụa cửa bức bàn.
- Các khu lăng mộ ở Lam Kinh:
Lam Kinh đang được an táng 6 vị vua và 2 hoàng Thái Hậu. Trải qua thời gian biến thiên của lịch sử hiện nay di tích còn lại 6 khu lăng mộ, có 5 mộ các vua và 1 bà Hoàng Thái hậu. Mỗi khu lăng mộ có diện tích khoảng 400m2, khu nhà bia khoảng 100m2 có bia và nhà che bia lăng mộ các vua gồm: Lăng mộ vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông và lăng mộ Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Hiện nay, các lăng mộ đã được trùng tu chống xuống cấp năm 1996. Hai ngôi mộ chưa tìm thấy là lăng mộ vua Lê Nhân Tông, lăng Hoàng Thái Hậu Nguyễn Ngọc Huyên. Có 2 đền thờ đã được phục hồi tôn tạo năm 1997, đó là đền thờ lê Thái tổ tại xã Xuân Lam, đền thờ Trung TúcVương Lê Lai xã Kiên Thọ – Ngọc Lặc, cách di tích Lam Kinh 5km về phía Bắc. Để di tích lịch sử Lam Kinh khôi phục lại như xưa (Tây Kinh, lam Kinh) xứng tầm với công lao to lớn của anh hùng dân tộc Lê Lợi triều đại Hậu Lê, việc gìn giữ bảo tồn di tích Lam Kinh, với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tri ân công lao sự nghiệp vĩ đại của anh hùng dân tộc Lê Lợi (Đức Thái Tổ cao Hoàng đế triều đậi Hâụ Lê nhà nước đang tập trung đầu tư phấn đấu cơ bản hoàn thành các di tích chính trong khu trung tâm vào năm 2015.
* Công tác bảo tồn phát huy giá trị di tích:
- Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ, bảo tồn, chống xuống cấp những điểm di tích có yếu tố thời Lê Sơ, Lê Trung Hưng.
- Thực hiện công tác nghiên cứu khảo cổ toàn bộ khu trung tâm di tích, làm cơ sở cho công tác nghiên cứu lập các dự án đầu tư phục hồi tôn tạo.
- Phối hợp với chính quyền địa phương làm tốt công tác tuyên truyền giới thiệu giá trị của di sản văn hoá đến với mọi người dân cùng tham gia giữ gìn, bảo vệ.
- Thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch đã được UBND tỉnh phê duyệt.
- Tổ chức thực hiện nghiên cứu lập hồ sơ khoa học cho từng công trình di tích; sưu tầm nghiên cứu tập hợp tư liệu, tài liệu văn hoá vật thể, phi vật thể, xây dựng kho tư liệu, kho hiện vật thời Hậu Lê phục vụ cho công tác tham quan, học tập, nghiên cứu khoa học về di tích.
- Tập trung nghiên cứu chỉnh trang phòng trưng bày, bổ sung hiện vật trưng bày ấn tượng phong phú đủ lớn để phục vụ tham quan học tập, nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc, ý nghĩa, giá trị lịch sử văn hoá di tích Lam Kinh triều đại Hậu Lê.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ làm công tác chuyên môn nghiệp vụ, thuyết minh viên di tích, nhằm tuyên truyền quảng bá những nét đặc sắc tiêu biểu của di tích Lam Kinh đến với mọi người dân trong tỉnh, trong nước.
- Phối hợp với các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương tuyên truyền quảng bá các giá trị di sản văn hoá của khu di tích lam Kinh đến với người dân trên cả nước.
- Thực hiện công tác nghiên cứu in ấn xuất bản ấn phẩm về di tích để tuyên truyền quảng bá.
- Đến nay, hầu hết các công trình hạng mục trong khu di tích đã được nghiên cứu khai quật khảo cổ học 7 đợt, cung cấp nhiều tài liệu có giá trị, làm rõ được hình hài của những di tích bị vùi lấp, bảo vệ được những di tích gốc đang có nguy cơ bị huỷ hoại, ngăn chặn được tình trạng hoang phế, đang từng bước khôi phục lại diện mạo Lam Kinh xưa.
Công tác phục hồi tôn tạo di tích Lam Kinh đã được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ ngành Trung ương, lãnh đạo tỉnh Thanh Hoá, nhân dân cả nước quan tâm ủng hộ.
Từ khi di tích Lam Kinh được phục hồi tôn tạo, cảnh quan di tích sạch đẹp, khách thập phương đến thăm di tích ngày một đông, nhất là trong dịp lễ hội mỗi ngày đến mấy vạn người. Đời sống nhân dân trong vùng ngày một cải thiện, kinh tế phát triển nhất là kinh tế dịch vụ. Sự quan tâm và ý thức trách nhiệm của chính quyền và nhân dân địa phương đối với di tích Lam Kinh được nâng cao.
Sách ảnh giới thiệu Khu di tích lịch sử Lam Kinh