ĐỀN LÊ LÂM
Đền nằm tại trung tâm làng Chuối, vào thời Lê vùng đất này có tên là Sách Tiến Dực huyện Lương Giang phủ Thiệu Thiêntrấn Thanh Hoá, đến thời Lê Trung Hưng thì vùng đất này đổi tên thành Phùng Dực (còn có tên khác là Mường Bằng), sau năm 1945 đổi thành xã Phùng Giáo - Ngọc Lặc
NÚI DẦU
Núi Dầu là một trong những vị trí rất quan trọng làm hậu chẩm cho toàn bộ khu trung tâm điện miếu Lam Kinh. Từ lăng vua Lê Thái Tổ đi sâu vào bên trong khoảng 500 m chính là núi Dầu (núi có độ độ cao 62m). Văn bia Vĩnh lăng có ghi "Tằng tổ của vua là Hối, người phủ Thanh Hoa. Một ngày kia đi chơi Lam sơn, thấy đàn chim bay lợn dưới chân núi Lam tựa như vẻ đông người tụ họp cho rằng chỗ này đất tốt liền dời nhà đến ở" núi Lam chính là núi Dầu và trong "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi cũng đã nhắc đến: "Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình" núi Lam Sơn hay còn gọi là Du sơn là nơi nổ ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nhưng ngày nay chúng ta biết nhiều hơn với tên gọi núi Dầu và sở dĩ ngọn núi lịch sử này có tên gọi là núi Dầu bởi vì truyền thuyết rằng: Khi Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, ông đã tìm ngọn núi ở gần vùng đất Lam Sơn, cho quân đêm đêm đốt đèn trên ngọn núi ấy gọi là đèn chiêu quân. Đèn thắp đêm này qua đêm khác để chứng tỏ tinh thần bất khuất và quật cường, cuộc khởi nghĩa vẫn sáng soi cho nghĩa sĩ bốn phương biết hướng tìm về Lam Sơn tụ nghĩa.
Dầu thắp đèn và ban đêm thắp trong trại bàn việc quân cơ cần dùng rất nhiều, nên phải có người thường xuyên tiếp tế dầu. Có một người đàn bà ở dưới xuôi lên, đem dầu bán cho trại chủ Lam Sơn. Để giữ đợc bí mật, Lê Lợi cho quân nhận dầu ở trước ngọn núi thắp đèn và chỉ mua dầu của người đàn bà ấy mà thôi. Bà hàng Dầu ngày ngày gánh dầu lên bán cho nghĩa quân, do đi lại nhiều lần, quân Minh dò biết, đã đón đường bắt bà hàng dầu mang về tra khảo cực kỳ dã man nhưng bà không hề hé răng nửa lời, cuối cùng chúng đã giết bà. Lê Lợi nghe tin rất cảm động về lòng yêu nước của người đàn bà này. Sau khi bà hàng dầu bị giết có một thời gian quân không đủ dầu thắp ngọn đèn trên núi không còn le lói như xưa. Lê Lợi đã nhớ ơn bà và đặt tên cho ngọn núi ấy là núi Dầu. Tên núi Dầu vẫn còn tồn tại đến bây giờ.
CHIÊU ANH QUÁN - ĐỀN NGỌC LAN
Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan thuộc khu 1- TTLam Sơn- huyện Thọ Xuân- tỉnh Thanh Hóa, nằm bên hữu ngạn sông Chu. Cách di tích lịch sử Lam Kinh khoảng 1km đến ngã ba rẽ trái 300m là tới di tích.
Theo nhà nghiên cứu Lê Xuân Kỳ kể lại rằng: Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan được xây dựng lại to lớn hơn vào thời Nguyễn, xưa kia chỉ là một đền thờ nhỏ lợp bằng tranh tre, nứa lá dựng trên một gò đất cao đằng sau có rừng Lim, quay mặt về hướng đông nam liền kề sông Nông Giang( sông đào thời Pháp thuộc), hai bên có núi Chủ Sơn và núi Mục Sơn làm tiền án tả hữu.
Dưới thời Lê Lợi, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra các khai quốc công thần từ khắp nơi trong nước về đất Lam Sơn tụ nghĩa. Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan chính là nơi chiêu binh đầu tiên ( trạm thông tin liên lạc) trước khi nghĩa quân vào Lam Sơn tham gia cuộc khởi nghĩa, trong đó có Nguyễn Thận, Nguyễn Xí, Lê Đạt, Lê Phần, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Văn An, Lê Bổng….
Sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi , các vị khai quốc công thần thời Lê đã được thay tên đổi họ và lấy họ Vua. Để tưởng nhớ công ơn các vị khai quốc , nhân dân đã lập đền thờ. Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan thờ 7 vị khai quốc công thần thời Lê đó là: Nguyễn Xí, Nguyễn Nhữ Lãm( Lê Nhữ Lãm), Nguyễn Thận( Lê Thận), Lê Văn An, Lê Bổng, Lê Phần, Lê Đạt.
Theo bà Đàm Thị Lý 78 tuổi, người trông coi đền kể lại rằng: Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan không những thờ 7 vị khai quốc công thần thời Lê có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là nơi thờ cô bé Ngọc Lan. “Xưa kia có một người con gái không chồng mở quán bán nước dưới gốc cây hoa Ngọc Lan, nghĩa quân Lam Sơn đã dừng chân nơi đây và làm cơ sở tuyển quân, được cô gái bán nước đưa đón, giúp đỡ, khi có giặc minh truy đuổi nghĩa quân Lam Sơn cô bán nước chính là người che dấu quân sỹ, đánh lạc hướng để giặc Minh không tìm được mục tiêu. Khi cô bán nước chết đi, nhân dân lập đền thờ dưới gốc cây hoa Ngọc Lan , vì vậy gọi là đền Ngọc Lan- Chiêu Anh Quán”.
Hiện tại, Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan đã được trùng tu, tôn tạo lại trên nền móng cũ và có mở rộng thêm ra hai bên với diện tích khoảng 200mm, xung quanh được bao tường khép kín để bảo vệ.
Không gian nội thất đồ thờ ở trong đền được sắp xếp như sau: Tính từ cổng đền vào phía bên trái, bàn trong cùng là nơi thờ 7 vị khai quốc công thần thời Lê: Lê Thận, Lê Nhữ Lãm, Lê Văn An, Lê Đạt, Lê Phần, Lê Bổng, Nguyễn Xí. Bát hương ở giữa là thờ hội đồng các quan, hạ ban là nơi thờ Ngũ Hổ Nam Dinh.
Trong đền có các tượng: Tượng phật Tổ, tượng phật Bà Quan âm, tượng Bồ Tát và tượng Nguyễn Xí( được làm vào khoảng những năm 1990- 1991).
Phía bên phải tính từ ngoài đền di vào gọi là Lầu Cô: có một bát hương thờ cô bé Ngọc Lan và tượng cô chủ điện.
Hiện nay, Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan chỉ còn lại duy nhất một bát hương bằng đá khoảng thế kỷ 15: Bát hương đã bị sứt 2 quai, trang trí chạm khắc trên bát hương rất tinh xảo và rõ nét. Mặt trước bát hương khắc mặt hổ phù, xung quanh 4 bên có hình hoa sen và rồng chầu mặt nguyệt rất đẹp, bát hương này đang được chủ Đền lưu giữ. Đây là một trong những đồ thờ có giá trị để có thể nghiên cứu về quá trình hình thành , tồn tại ,phát triển của đền.
Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan được xây dựng rất hài hòa dưới tán cây cổ thụ( Ngọc Lan), lá xanh, thanh cao góp thêm phần linh thiêng huyền ảo. Đến viếng thăm di tích, du khách cảm nhận được vẻ đẹp, tính linh thiêng được nhân dân bảo tồn, gìn giữ theo thời gian cho nên không lúc nào mất mùi hương thơm và đặc biệt là mùi thơm của hoa Ngọc Lan, lan tỏa vào không gian, hòa quện với cảnh quan thiên nhiên, tâm limh của đền.
Ngày nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc được bảo vệ và phát huy. Chính vì vậy, ngày 09/1/1993 Chiêu Anh Quán- Đền Ngọc Lan được UBND tỉnh Thanh Hóa có quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh.
ĐÌNH HÀO LƯƠNG
Đình Hào Lương xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, nằm cách trung tâm khu di tích lịch sử Lam Kinh 3km về phía Đông Nam. Đây là vùng đất cổ gắn liền với nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ XV. Đình toạ lạc trên gò đất cao, quay hướng Nam nhìn về sông Lương (sông Chu), người dân trong làng cho rằng đây là khu đất đắc địa nhất được người xưa chọn là thế "Vượng khí" để dựng Đình. "Bên tả có Thanh long , bên hữu có Bạch hổ". Nhân dân làng Hào Lương xây dựng Đình để thờ cúng tỏ lòng ngưỡng mộ tôn kính, cúng tế các bậc tiền nhân, linh hiển đã có công giúp nước, hộ dân, đồng thời cũng là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hoá của làng Hào Lương qua các thời kỳ.
Theo sử sách cùng với cứ liệu bài vị Hoàng Việt khai quốc công thần chi bi, do Lê Bá vâng sao năm Thành Thái thứ 18 (1906) thì Đình Hào Lương lập để thờ cúng bảy vị Thất tính tiên công gồm: Lê Văn Đắc, Lê Viết Khả, Lê Viết Trạc....và ba vị khai quốc công thần triều Lê Sơ: Lê Sao, Lê Bị, Lê Nhị.
Lê Sao là người xã Đoạn Lương, huyện Lương Giang, thời Trùng Quang giữ chức Vũ hiển đại phu Thiên Ngưu vệ tướng quân, quản lĩnh ngự tiền Bình chương quân, gia phong Quang Lộc Đại phu xa vệ Đại tướng quân thượng trí. Ông được xếp vào hàng thứ 55 trên bảng kê 125 vị Khai công thần và được ban tặng đình Thượng hầu.
Năm Thái Hoà thứ nhất (1443) giữ chức Phụng tuyên sứ điền, Ty đô hiệu điểm, Tham tri ngự tiền thân quân cùng ngự tiền tả suy (Đại Việt sử ký tập3).
Theo bản sắc phong, ông được ban tặng: Suy trung, Dực Vận Hiệp mưu Bảo Chính Tá lý Đồng đức công thần, Nhập Kiểm Hiệu Bình Chương Sự, Đại Tư Đồ Vinh Quốc Công Lê Sao. Gia phong Tịnh Giản Vương, bao phong Thượng đẳng phúc thần với các mỹ tự: Dực Vận, Phù Tộ, Uyên Lược, Dũng Quyết, Khuông quốc....Bật sung Đại vương.
Lê Bị là người xã Đoạn Lương, huyện Lương Giang (nay là làng Hào Lương xã Xuân Lam). Ông sớm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng bình Định vương Lê Lợi, lập được nhiều công lao, sau khi chiến thắng giặc Minh Lê Lợi lên ngôi, vua luận ban thưởng cho ông tước Huyện thượng Hầu, Bảo Chính công thần, Nhập nội Thiếu uý.
Năm Thuận thiên thứ 4 (1432) được cùng vua ngự giá chinh phục Thái Nguyên. Năm Hồng Đức thứ 15 (1485) được ban Hàm Thái phó, tước Mậu quận Công. Sau này mất được triều đình truy phong làm phúc thần cho phép nhân dân thờ cúng. (Đại Việt sử ký toàn thư tập 3)
Lê Nhị là một tướng giỏi được xếp vào hàng thứ 42 trên 125 bậc khai quốc công thần. Năm Thuận Thiên thứ 1(1428) được vua sai cho làm Tổng quản Hà
Đình Hào Lương được xây dựng trong khoảng thế kỷ XV (theo lịch sử xã Xuâ Lam năm 2004). Đình được trùng tu hai lần: Lần thứ nhất vào năm Tân Tỵ (1881) thời vua Tự Đức còn ghi trên thượng lương. Lần thứ 2 vào năm Bính Dần (1926) thời vua Bảo Đại.
Hiện nay Đình có tổng diện tích là 1200,75m2, được xây theo kiểu kiến trúc 2 gian 3 vẩy, tường hồi bít đốc, trên bờ chảy của nóc hồi được xây giật cấp, các đường kỷ hà chạy trên bờ chảy càng tôn thêm dáng cổ kính của ngôi Đình. Mái đình lợp ngói mũi, giữa nóc đình đắp mặt hổ phù, hai dải kỷ hà từ mặt hổ phù đến 2 con kìm bám vào trụ bát ở hai đầu hồi.
Bốn cột hiên được xây bằng gạch xi măng, hai cột giữa đắp nổi hai câu đố bằng chữ Hán với nội dung phiên âm sau:
Tự tích hào lưu thắng địa
Nhi Kim lương bống bí tiền công.
Dịch :
Từ xưa nét hào hoa còn lưu mãi nơi đất đẹp
Mà nay bậc lương đống toả mãi công lao.
Đình Hào Lương là di tích Lịch sử, Văn hoá kiến trúc nghệ thuật gắn liền với một vùng đất cổ, vùng đất đã in đậm dấu ấn một thời oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầu thế kỷ XV. Đồng thời là nơi thờ nhân vật có thật (khai quốc công thần nhà Lê), tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước thời Lê Sơ. Với tất cả những gì hiện còn, Đình Hào Lương vẫn là một di sản vô cùng quý giá, đây chính là những cứ liệu lịch sử quí báu, là chứng nhân sống đã ghi nhận những thành tựu văn hoá truyền thống xuyên suốt chiều dài lịch sử. Nơi đây cũng chính là một điểm đến cho du khách mỗi khi về thăm quan di tích lịch sử Lam Kinh.
ĐỀN THỜ VÀ LĂNG MỘ NGUYỄN NHỮ LÃM
Đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm nằm trên địa bàn làng Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Cách khu di tích lịch sử Lam Kinh khoảng 6 km về phía Đông
Nguyễn Nhữ Lãm chính quán người xã Vân Xá, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Theo gia phả dòng họ Nguyễn, ông thân sinh Nhữ Lãm là công thần làm quan cuối đời Trần, vì chán cảnh đời nhiễu nhương nên từ quan về quê. Là gia đình giàu có, vợ ông là Lê Thị Lịch, một phụ nữ hiền thục, được mọi người quý mến. Mãi ngoài 40 tuổi bà Lịch mới sinh được một cậu con trai, ông bà đặt tên là Nhữ Lãm. Nhữ Lãm lớn lên dáng người cao đen, học giỏi lại có tài biện luận, gặp lúc vận nước suy, quân minh xâm lược, muốn tìm nơi ẩn thân dấu tiếng. Nghe nói đất Lam Sơn, xứ Thanh Hoa, có hào trưởng Lê Lợi, mấy lần quân Minh trao cho quan chức mà không nhận. Nhữ Lãm nghĩ chắc là bậc hào kiệt ngầm nuôi chí lớn, bí mật đem cả gia quyến đến dựng nhà, mở trại tại làng Mỹ Thịnh, huyện Cổ Lôi (nay thuộc xã Thọ Diên- Thọ Xuân). Được ít lâu sau, Nhữ Lãm mới tìm đến Lam Sơn cầu thân Lê Lợi.
Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi giao cho Nhữ Lãm nhiệm vụ tích chứa lương binh. Ngày khởi nghĩa, tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), ông là một trong số 51 tướng đứng dưới cờ Bình Định Vương. Mặc dù ông không trực tiếp xông pha chiến trận như các tướng văn, võ khác mà chuyên phụ trách đội quân thuyền chài vận tải, tiếp tế binh lương, khí giới.
Đặc biệt, trong những ngày tháng nghĩa quân Lam Sơn phải đối mặt với nhiều gian nan thử thách, tưởng chừng như không thể vượt qua, phải ba lần rút lên núi Chí Linh ẩn náu. Tại núi rừng Chí Linh, binh sỹ mệt mỏi, lương thực khô cạn, phải ăn măng với rau củ dại, vua đành phải giết voi, ngựa để làm thức ăn cho binh lính. Trước tình hình đó, Nguyễn Nhữ Lãm đã trở về phường Đa Mỹ cùng với đội quân thuyền chài dùng thuyền đánh cá bí mật chở gạo, muối tiếp tế cho nghĩa quân. Nhờ đó mà binh lính nhanh chóng được tiếp thêm sức mạnh để giáng cho quân Minh những đòn chí mạng.
Sau 10 năm kháng chiến đầy gian khổ, đất nước được thanh bình, vua luận công để phong tặng chức tước, đại ban cho ông quốc tính (mang họ vua), vinh thăng Thôi Trung Phụ Quốc công thần, Nhập nội Thượng thư lệnh Nhập nội thuyên hiệu Thái bảo Đình huyện hầu.
Có thể nói, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong những đại thần có đóng góp lớn trên nhiều lĩnh vực như: Quân sự, chính trị, ngoại giao, kiến trúc... góp phần quan trọng vào việc xây dựng nhà nước Đại Việt vững mạnh ở thế kỷ XV. Nguyễn Nhữ Lãm được mang họ vua, lúc mất (1437) khi đang giữ trọng trách Thượng thư lệnh, Tham Tri Chính sự, Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch sự, tước Đình Thượng Hầu. Do có công lao, ông đã được truy tặng Nhập Nội Thái Bảo, thuỵ là Trung Tín, tước Thàng Quốc Công. Đến đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ 15 (1448), ông lại được truy phong Khang Tế Hầu.
Sau khi Nguyễn Nhữ Lãm mất, nhà vua đã sắc dụ cho dân phường Đa Mỹ cùng các làng lân cận của ba tổng Diên Hào, Bất Náo, Kiên Thạch và con cháu dòng họ Nguyễn Mậu an táng và xây đền thờ, lăng mộ ở chính quê ông.
ĐỀN THỜ
Là kiến trúc thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 3 (1851), được di chuyển từ bờ sông
Trước cổng có 2 trụ đá gần vuông, bốn chiều tương đối bằng nhau, được khắc chữ Hán 2 mặt. Những hiện vật như máng đá, chân tảng hiện đang để rải rác trong khu di tích đã chứng minh cho chúng ta thấy, khi di chuyển đền từ bờ sông
Hai pho tượng võ sỹ được tạo tác trang phục võ quan, mũ giáp trụ. Mỗi pho tượng có chiều cao 1,03m, rộng 0,85m được tạo tác bằng một khối đá nguyên, đứng trên một đế cao 30cm, rộng 60cm; cùng với sập đá, chó đá, voi đá, long ngai, bài vị thờ bằng đá xanh... được chạm khắc tinh xảo, là những tác phẩm nghệ thuật đặc biệt có giá trị giúp các nhà nghiên cứu mỹ thuật tìm hiểu một giai đoạn phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam thời Lê Sơ.
LĂNG MỘ
Lăng mộ Nguyễn Nhữ Lãm trước đây được đặt ở ven bờ sông, thuộc làng Thịnh Mỹ, nhưng do bị sụt lở nên toàn bộ khu lăng mộ này bị chìm dưới lòng sông vào cuối thời Lê Trung Hưng. Ông Nguyễn Mậu Cử, lúc ấy là trưởng họ của dòng họ Nguyễn Mậu đã làm sớ tâu lên triều đình. Tháng 12 năm 1750, vua Hiển Tông đã cử tướng của triều đình là Nguyễn Khâm Thận về Đa Mỹ - Thọ Diên tìm đất táng lại mộ. Nguyễn Khâm Thận đã tìm thấy thế đất đẹp để táng mộ lâu dài tại Voi Quỳ (Bái Lăng) - nay thuộc thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân.
Khu lăng mộ hiện tại được xây dựng hoàn toàn bằng vật liệu gạch và vôi vữa, gồm có sân lăng và lăng mộ. Sân lăng có diện tích 30,3m2, được lát gạch bát màu đỏ, xung quanh được bao bởi một lớp tường mỏng, thấp. Mộ có diện tích 15,2m2 , cao 5,5m, được xây dựng theo hình hộp tứ diện có chóp gồm 3 tầng. Ba mặt (mặt trước và mặt hai bên) được trổ cửa. Phía trong ở tầng cuối được đặt bát hương thờ. Mặt chính được đắp nổi ba chữ Hán "Đức Kỳ Thịnh" (nghĩa là: Giàu đức một thời). Mái lăng được giả kiểu ngói ống. Các góc của lăng được đắp cong, đỉnh chóp lăng được đắp hình nậm rượu.
Với những giá trị to lớn về lịch sử và nghệ thuật, khu di tích đền thờ và lăng mộ Nguyễn Nhữ Lãm đã được nhà nước xếp hạng là di tích Quốc gia.
CHÙA LINH CẢNH
Chùa Linh Cảnh còn có tên gọi là chùa Bái. Thuộc xã Xuân Bái huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá.
Hiện tại chưa có nguồn tài liệu nào ghi lại chính xác thời gian và niên đại xây dựng ngôi chùa. Tương truyền Chùa được xây dựng vào thời Trần khoảng cuối thế kỷ XIV, theo lời kể của các cụ cao niên trong làng cho biết, xưa kia chùa chỉ mang tính chất là chùa làng. Kiến trúc gồm có 3 gian, vì kèo được làm bằng gỗ, mái lợp bằng tranh, tre, nứa lá, nằm dưới gốc cây đa cổ thụ, trong chùa chỉ có 3 pho tượng phật tam thế chạm khắc trên bức phù điêu bằng gỗ.
Năm Đinh sửu (1937) dưới kêu gọi của sư cụ Đàm Viết Thi, pháp danh là Thích Nguyên Tâm cùng các phật tử và nhân dân địa phương, du khách thập phương đã công đức tiền để xây dựng chùa.
Chùa được xây dựng bằng gỗ lim kiến trúc hình chữ đinh(J) tiền đường có 5 gian, hậu cung có 3 gian. Vào những năm khỏng chiến máy bay đã đánh phá đập Bái Thượng Chùa đã bị hư hại nặng. Năm 1996 Chùa đã được trùng tu, tôn tạo lại trên nền chùa cũ, gồm có tiền đường và thượng điện, tổng diện tích 5.000m2. Hiện tại chùa còn lưu giữ được một tấm bia ghi lại việc xây dựng, tu sửa chùa.
Nội dung tấm bia như sau:
Nhân dân xã Bái Thượng, Tổng Bái Đô, Phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá trên dưới một lòng dựng bia ghi lập công đức, cái bao trùm lên trên là ghi bia lập đức, thứ mới đến lập công để không bao giờ quên được vậy.
Bia khắc truyền rằng.
Núi yên Sơn còn cao ngất trời.
Nước Lương Thuỷ còn cuồn cuộn trôi.
Chùa Linh Cảnh tự ngàn đời.
...... Khắc vào bia đá.
Trường tồn Thiên ức Vạn niên (Triệu năm vẫn còn) Thiền tăng tục từ Hoà thượng: Thạch thi phát hiện Nguyên Tâm.
Sư ông quản tự, tên tự: Thanh Nhuận.
Ngân quĩ xã vốn có: Một trăm hai mươi lăm đồng.
Tiên Chỉ Đặng Ngọc Hiền, vợ là Bùi Thị Hương cúng Thiết mộc ba cây; Chánh Tổng Đặng Ngọc Liên cúng 5 đồng bạc ...
... Nguyễn Văn Thư, bác Thạnh, bác Tịch, Nguyễn Văn Tráng, Thị Chất, Đặng Thị Tây đều cúng 5 hào.
Ngày lành tháng tốt trọng Xuân (tháng 2)
Năm Tân Tỵ, niên hiệu Bảo Đại thứ 16 (1941).
CHÙA TẠU - HỒI LONG TỰ
Chùa Tạu còn có tên gọi khác là Hồi Long Tự, tên chùa " Tạu" theo cách gọi của nhân dân địa phương nghĩa là nơi có hồ nước. Chùa Tạu thuộc làng Xuân Phả, xã Xuân Trường, huyện Thụy Nguyên xưa, nay là( huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
Chùa Tạu cách thành phố Thanh Hóa 38km về phía Tây theo đường Quốc lộ 47 cũ, từ di tích lịch sử Lam Kinh đi về phía đông nam 12km là đến chùa Tạu, Chùa được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1993.
Chùa Tạu- Hồi Long Tự có niên đại xây dựng hàng nghìn năm cùng với thăng trầm của mảnh đất này.Tương truyền dưới thời Lý đã có ngôi chùa này được làm bằng tranh mà vùng đất Xuân Phả lúc đó có tên gọi là Láng Trung. Theo cụ Đỗ Đình Bật lúc 80 tuổi( vốn là học trò của vị sư trụ trì chùa Tạu) còn nhớ trên thượng lương ghi rõ năm dựng chùa "Đình Triều Canh Thìn"( năm 980).
Tấm bia đá dựng trước chùa ghi các lần trùng tu bằng chữ hán.
Lần 1: Năm Bính Tuất Quang Hưng( năm 1586) do Hoài Viễn Hầu, tự là Thiệu Chấn Hưng Công , một vị tướng thời Lê Trung Hưng.
Lần 2: Năm 1666 Thiên Đô ngự sử Thiệu Chính sửa.
Lần 3: Do nhân dân địa phương và thập phương tu sửa.
Lần 4: Năm 1925 xây dựng thêm điện thờ Thánh mẫu
Lần 5: Năm 1937 sửa điện thờ Thánh mẫu
Lấn 6: Năm 1940 xây dựng thờ Phật tổ
Lần7: Năm 1943 đại tu toàn bộ chùa.