Loading...
ditichlamkinh.vn

Lời ngỏ

Khu di tích lịch sử Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa 50km về phía Tây. Nằm trên địa bàn xã Xuân Lam, Thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lam Kinh quê hương đất tổ nhà Lê - nơi sinh ra anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy chiến công thế kỷ XV …

CÁC VUA LÊ SƠ VỀ LAM KINH BÁI YẾT SƠN LĂNG


Lam Kinh – Lam Sơn nơi sinh ra người anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành độc lập cho đất nước. Trải qua 10 năm khởi nghĩa chống quân Minh (1418 – 1427) khi đất nước đã sạch bóng quân thù, triều đại phong kiến Hậu Lê được thành lập. Ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long – Hà Nội), lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đặt tên nước Đại Việt.

Năm 1429, vua Lê Thái Tổ về thăm quê hương lần đầu tiên kể từ ngày đăng cơ. Trong lần đó vua sai khắc biển ngạch công thần ban cho 93 vị khai quốc, trong đó có nhiều vị khai quốc công thần sinh ra trên vùng đất Lam Sơn. Năm 1430, Lê Thái Tổ ban lệ luật “đổi Đông Đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh”1 hay còn gọi là Lam Kinh. Đây là dấu mốc quan trọng, vùng đất căn bản của triều đại Hậu Lê. Ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà tại kinh thành Thăng Long, triều thần hoàng tộc nhà Lê đưa thi hài của ngài về Lam Kinh an táng, con thứ Lê Nguyên Long (vua Lê Thái Tông) lên nối ngôi đã cho xây dựng công trình điện miếu tại Lam Kinh. Từ đó Lam Kinh trở thành nơi sơn lăng (nơi an táng của các vua và hoàng hậu đầu triều Lê Sơ). Trong suốt thời kỳ Lê Sơ, các vị hoàng đế triều Lê đã 20 lần về “bái yết sơn lăng” Lam Kinh:

Lần 1: Năm Kỷ Dậu (1429) tháng 11, vua Lê Thái Tổ ngự về Tây đô, bái yết sơn lăng, thưởng cho các tướng hiệu và quân nhân theo hầu, mỗi người được thăng tước một bậc, nếu là Thượng trí tự và Đại trí tự thì được thăng tước 1 tư. Người nào có con cháu được phong hầu thay mình và những người không có công lao thì không thuộc lệ này2.

Lần 2: Mùa Thu, tháng 8 năm 1433, giáng con trưởng Tư Tề làm quận công vương, lấy con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống. Vua về Lam Kinh3.

Lần 3: Năm Mậu Thìn (1448) tháng 2, ngày Giáp Tuất, vua Lê Nhân Tông về ngự Lam Kinh, thái hậu và các vương đều đi theo. Sai đại tư đồ Lê Thận và đô áp nha Lê Bí ở lại giữ kinh sư. Dân Thanh Hóa thấy vua đến, trai gái, dắt tay nhau hát rí ren ở hành tại. Ngày Nhâm Ngọ, vua đến Lam Kinh, làm lễ yết lăng miếu 4.

Lần 4: Ngày Đinh Mùi mồng 8, vua Lê Nhân Tông ngự về Lam Kinh, ngày quý sửu tới Lam Kinh. Đêm ấy mưa đá. Ngày 15, vua đích thân dẫn trăm quan bái yết Sơn lăng và ra lệnh chỉ cho quan coi rằng: “Mọi việc ở đền thờ cần phải thành kính, tinh khiết như ngã cây, chặt tre, kiếm củi… Tế tẩm miếu dùng 4 trâu, đánh trống đồng, quân lính reo hò hưởng ứng. Về nhạc, võ thì múa điệu “Bình Ngô phá trận”, văn thì múa điệu “Chư hầu lai triều”5.

Ngày 21, ban yến cho các quan hộ giá, các quan nhận chức ở ngoài và các quan trí sĩ ở hành điện Lam Kinh, thưởng tiền theo thứ bậc khác nhau. Ngày hôm sau, ra lệnh chỉ cho các đại thần bàn định đặt tên hiệu cho các miếu điện ở sơn lăng Lam Sơn. Chánh điện gọi là điện Quang Đức, điện Sùng Hiếu, hậu điện gọi là điện Diễn Khánh. Lại sai quân phủ Thanh Hóa làm tẩm cung thờ Thái hoàng thái phi ở phía tây điện lăng Lam Sơn.

Lần 5: Năm Tân Tỵ (Quang Thuận) thứ 2 (1461). Mùa xuân, tháng giêng, vua Lê Thánh Tông ban miếu húy ngự danh. Miếu có 9 chữ tháng 2 mùa Xuân nhà vua đi tuần du đến Tây Kinh bái yết sơn lăng6.

Lần 6: Năm Giáp Thân (1464) tháng 2, vua ngự về tây kinh bái yết sơn lăng7.

Lần 7: Năm Đinh Hợi (Quang Thuận) thứ 8 (1467). Mùa xuân, tháng Giêng, vua ngự về Tây Kinh, khi trở về, tập trận ở sông Thiên Phái8.

Lần 8: Năm Mậu Tý (1468), tháng 8, các quan theo hầu vua về Lam Kinh, vua cùng hoàng thái tử và Kỳ quận công Lê Niệm, cùng các quan theo hầu là bọn Lê Hoằng Dục, Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo, vua tôi cùng nhau xướngng họa, sáng tác Anh hoa hiếu trị thi tập, có nhiều câu sang sảng như vàng gieo9.

Lần 9: Năm Canh Dần (1470) tháng 2, vua ngự về Tây Kinh. Vua nói: “Năm trước ta đến Phúc Quang đường thì ruộng nương Động Bàng ít nước không thể cấy lúa được. Năm nay nước nhiều, lúa chiêm mênh mông bát ngát”. Rồi vịnh luôn bài thơ tứ tuyệt rằng:

Vạn khoảnh thanh thanh thị hạ điền,

Tề dân đương dĩ thực vi thiên.

Thôn đầu tam lưỡng nông phu đáo,

Giai vị kim niên thắng tích niên10.

Lần 10: Năm Quý Tỵ (1473), tháng 2, vua Lê Thánh Tông ngự về Tây Kinh bái yết lăng miếu. Vua đi thuyền nhẹ ngược dòng sông Lỗi bái yết nguyên miếu ở thành Tây Đô. Sau đó, đến từ đường Thuần Mậu ở bên bờ sông (Từ đường này ở hương ấp của cha sinh ra thánh mẫu hoàng thái hậu Ngô thị và mẹ là Đinh thị)11.

Lần 11: Năm Bính Thân, (Hồng Đức) năm thứ 7 (1476). Mùa xuân, tháng 2, vua Lê Thánh Tông thân hành ngự đến nhà Thái học, sai các văn thần chia nhau tế ở đông vu và tây vu. Ngày 16, nguyệt thực toàn phần. Vua ngự về Lam Kinh. Ngày 22, vua xuất phát từ Tây Kinh, đi thuyền nhẹ ra cửa Linh Trường hải khẩu và bài tự12.

Lần 12: Năm Nhâm Dần, (Hồng Đức) năm thứ 13 (1482) thời vua Lê Thánh Tông. Mùa xuân, tháng giêng, vua Lê Thánh Tông ngự về Tây Kinh13.

Lần 13: Năm Mậu Thân, (Hồng Đức), năm thứ 19 (1488). Mùa xuân, tháng Giêng, ai theo hầu vua Lê Thánh Tông về Lam Kinh được thưởng 1 tư. Tuyển người khỏe mạnh sung quân ngũ, thải người già14.

Lần 14: Năm Tân Hợi, (Hồng Đức), năm thứ 22 (1491). Mùa xuân, tháng 2, các quan theo hầu vua Lê Thánh Tông ngự về Lam Kinh được thưởng 1 tư15.

Lần 15: Năm Bính Thìn, (Hồng Đức), năm thứ 27 (1496). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 4, vua Lê Thánh Tông ngự thuyền đi Đông Kinh bái yết các lăng tẩm. Ngày 11, làm lễ tấu cáo, ngày 12 dựng cầu Tế Độ ở ngoài cửa Quang Đức. Vua viết sách Xuân vân thi tập. Ngày 14, trời không mưa. Vua cầu đảo, tự tay viết các bài thơ trong thi tập của mình ra 4 tờ giấy, sai Nguyễn Đôn dán trên tường đền thờ thần16.

Lần 16: Tân Dậu năm thứ 4 (1501). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, vua ngự về Tây Kinh, cấm các quan theo hầu không được sai quân cờ chở đem vợ con, hoặc kỹ nữ đi theo, bừa bãi tình dục17.

Lần 17: Năm Giáp Tý (1504) tháng 2, vua Lê Hiến Tông về Tây Kinh18.

Lần 18: Năm Đinh Mão (1507), tháng 3, vua Lê Uy Mục làm lễ yết lăng ở Tây Kinh. Ngày Mậu Tuất, 24, vua từ Tây Kinh trở về, đóng dinh ở hành điện Xuân Đỗ, thân đến ngự điện Chân Nguyên nhìn xem phúc địa19.

Lần 19: Tân Mùi năm thứ 3 (1511). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, có nhật thực. Tháng 2, vua Lê Tương Dực làm lễ yết lăng ở Lam Kinh20.

Lần 20: Giáp Tuất năm thứ 6 (1514). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 9, vua Lê Tương Dực ngự về Tây Kinh bái yết lăng tẩm21.

Chú thích:

  1. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Giu và Đào Duy Anh, Nxb Thời Đại, tr 534.
  2. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 305.
  3. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 308.
  4. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 363.
  5. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 385.
  6. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 396.
  7. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 404.
  8. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 415.
  9. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 436.
  10. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 441.
  11. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 462.
  12. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 468.
  13. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 488.
  14. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 506.
  15. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 512.
  16. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội 1985, tr 517.
  17. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Du & Đào Duy Anh – Nxb Thời Đại, tr 748.
  18. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Du & Đào Duy Anh – Nxb Thời Đại, tr 757.
  19. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Du & Đào Duy Anh – Nxb Thời Đại, tr 764.
  20. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Du & Đào Duy Anh – Nxb Thời Đại, tr 777
  21. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Du & Đào Duy Anh – Nxb Thời Đại, tr 790

Tài liệu tham khảo:

  1. Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Giu và Đào Duy Anh, Nxb Thời Đại.
  2. Đại Việt sử ký toàn thư – dịch theo bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 - Nxb Khoa học xã hội.
  3. Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, Nxb Kim Đồng.

Bài: Lê Thị Dịu

Cán bộ phòng nghiệp vụ Ban QLDTLK

 

 

 

 


Audio Guide

ditichlamkinh.vn

Thống kê

        Hướng dẫn tìm đường

 

 

Khu di tích lịch sử Lam Kinh
 
Định vị thiết bị

Bản quyền 2017 thuộc Ban quản lý Di tích Lam Kinh